Trường hợp khá lạ về vòng Trường Sinh

Có trường hợp này tao thấy khá là lạ.

Bé Trần Gia Hân (SN 2017) là con gái duy nhất của vợ chồng anh Trần Công Hoàn (SN 1979) và chị Nguyễn Thị Hoa (SN 1987). Suốt từ ngày Tết đến nay, cả thôn 1, xã Xuân Lĩnh bao trùm nỗi buồn, nỗi xót xa khi chứng kiến cảnh bé Gia Hân bơ vơ một mình khi cha mẹ lần lượt bỏ em mà ra đi.

2 tuổi vợ chồng này lấy nhau thì 100% các thầy đều bảo xấu.

Xưa giờ xem vợ chồng con cái thì vợ chồng lấy nhau cho dù 2 tuổi có xấu thì chỉ cần dựa vào vòng Trường Sinh đẻ đứa con ra hợp là giải được cái xấu.

https://1.bp.************/-ScHu7shl4bI/XZnEjpZvNaI/AAAAAAAALWA/gcQZ5SNAxCs5300VJpmYvmd43rjd_RHAgCLcBGAsYHQ/s1600/Vong%2BTrang%2BSinh%2B-%2BDrThanhGenerali.png

Rõ ràng bố Kỷ + mẹ Đinh đẻ đứa con tuổi Dậu rớt vào Trường Sinh là giải được xấu.

Thế đéo nào mà chết cả 2 là sao? Thằng nào hiểu giải thích giúp tao với?

Trường hợp này tao nghĩ là phạm gì đó về cõi âm nên mới đi cả 2 như vậy.
 
- Cha: Kỷ Mùi Mạng: Thiên Thượng Hỏa
Kỷ Mùi, là hỏa thiên khố. Cư ở phương Ly rõ ràng, đất vượng tướng, khí cực thịnh, khác thủy không có tổn thương. Kị thủy Bính Ngọ, Đinh Mùi là Thiên Thượng thủy. "Kỷ Mùi, là hỏa suy, hàm chứa khí tàng báu vật, tháng xuân hạ, vận nhập đất ẩm sâu, thì lòng dạ trong sáng, phúc khánh rất sâu, được mùa hạ, không phải hòa khí vậy, được mùa thu, thì trước cát sau hung."
Thiên Thượng hỏa, làm ấ áp núi sông, chiếu sáng vũ trụ, Nhật (mặt trời) đức chiếu sáng đẹp
đẽ ở trên trời, Nguyệt Tinh (Mặt trăng và các vì sao) cách ly chiếu sáng ở trên biển, Mậu Ngọ
là Thái Dương thì cương, Kỷ Mùi là Thái Âm thì nhu, hoặc lấy lấy Nhật ở mùa hạ thì cương,
Nhật ở mùa đông thì ôn nhu, là vu khống vậy. Đều yêu cầu Tuất Hợi là Thiên Môn, Mão Dậu
là cánh cửa xuất nhập, đông nam là hành lục địa thì cát. Hỏa này thấy mộc gọi là Chấn chiết,
ngày giờ cần có phong cùng thủy mới được. Đại Lâm mộc có Thìn Tị, Tùng Bách, Thạch
Lựu có Mão Dậu, cho nên duy chỉ có 3 mộc này là quý. Ngọ thấy mộc nhiều vẫn còn được, 3
Mùi, 4 mộc, là mệnh lao khổ vậy. Thấy kim mà có thể chiếu sáng, không thể khắc cứu. Soa
kim có Tuất Hợi, Bạc kim có Dần Mão, chủ cát; thấy kim là Nhật Nguyệt chiếu sáng, tất chủ
thiếu niên đăng khoa đệ; kim còn lại thì tai ương. Thủy cần Giản Hạ, cần Mậu Ngọ thấy Đinh
Sửu, Kỷ Mùi thấy Bính Tý, âm dương giao hỗ nhau, mới là phúc quý, trong trụ có thêm mộc
giúp sinh, phú quý song kim; Đại Khê có Ất Mão, Tỉnh Tuyền có Kỷ Dậu, có cửa xuất nhập,
đều cát; Thiên Hà Vũ lộ cứu nhau, không lấy vị trí khắc luận, Mậu Ngọ thấy Đinh Mùi, cũng
cát, Bính Ngọ thì không sáng. Hỏa thích Đăng đầu, lại có hỏa khác thì khô táo; Phích Lịch
mang mây mưa thì Nhật Nguyệt không có ánh sáng, cho nên chủ hôn mê ngu muội; Lư Trung
Ngọ kị Bính Dần, Tị Ngọ là cương hỏa, mới thấy Bính Dần, thì là đất hỏa sinh, nếu không có
thanh thủy giải cứu, chủ phạm hình hung tử, Đinh Mão thì hơi được; thổ thấy Sa Trung, có
Tốn làm phong; Lộ Bàng, Thành Ốc đều cát, trong trụ có thêm kim mộc trợ nhau, càng cát.
Khảo sát Diệu Tuyển, Mậu Ngọ gặp Mão, Kỷ Mùi gặp Dậu, là Nhật Nguyệt phân tú cách, mà
Mão lấy Ất Mão, Tân Mão là chính, Kỷ Mão, Đinh Mão là thứ, Dậu lấy Ất Dậu, Quý Dậu là
chính, Kỷ Dậu, Đinh Dậu là thứ; có Nhật xuất Phù Tang cách, tức là Nhật phân tú cách, ngày
giờ lại thấy Tị Ngọ; có Nhật luân Đương Biểu cách, lấy Mậu Ngọ sinh ở Ngọ, ngày gặp ngày
Tị Ngọ, lại lấy Mậu Ngọ thấy Mậu Tý là chính vị trí Khảm Ly; có Nguyệt sinh Thương Hải
cách, tức là Nguyệt phân tú cách, mà Dậu được Ất Quý là vậy; có Nguyệt chiếu Hàn Đàm
cách, là thủ Nhâm Quý Hợi Tý, nạp âm thuộc thủy là Đàm, nhưng tất phải sinh mùa thu mới
quý; có Nguyệt Quế phân phương cách, người sinh là Kỷ Mùi, trụ có 3, 4 mộc củng tập, cùng
giống Quế Lâm cách, cùng Quế Lâm Tị ít mới quý, Phân Phương Tị nhiều là quý, nghĩa đều
có chỗ dùng vậy. Lại xét trong hung cách, Thái Dương tổn ánh sáng, Mậu Ngọ không chịu
được ở thủy tràn, là sợ thủy thịnh; Thái Âm bạc thực, Kỷ Mùi sao kham ở thổ nhiều chứ? Là
sợ thổ trọng vậy. Cần phải tham khảo cùng như thế, mới hiểu hết lý.
- Mẹ: Đinh Mão Mạng: Lư Trung Hỏa
Đinh Mão, là hỏa lại sáng tỏ. Khí nhược, cần mộc sinh, gặp thủy thì hung, Ất Mão, Ất Dậu thủy là rất độc.
Lư trung hỏa, là lò lửa giữa trời đất, là than củi âm dương, ánh sáng bốc lên ở giữa vũ trụ, trở
thành nung đúc ở Càn Khôn. Hỏa này là Viêm thượng, hỷ được mộc sinh, duy chỉ có Bình
Địa mộc là vi thượng, lấy Bính Dần thấy Kỷ Hợi, gọi là Thiên Ất quý, thấy Mậu Tuất, gọi là
quy khố, cho nên cát, Đinh Mão là thứ. Nhưng Bính Dần là hỏa tự sinh, không có mộc để tựa,
Đinh Mão là hỏa tự bại, nếu không có mộc thì hung, mà hỏa này lấy kim làm dụng, được thêm kim đến, mới ứng cơ hóa, nhưng Đinh Mão không có mộc mà lại gặp kim, chủ mệnh lao khổ. Nói Dần kiến mộc nhiều hỏa, viêm mà không có thủy chế, chủ yểu, thấy 3 Mão, 2 mộc thì không ngại, như Canh Dần Tân Mão là nói tương sinh, Nhâm Ngọ Quý Mùi là hóa chân hỏa, thấy Dần nhiều chủ hung bạo hoặc tật yểu. Nếu trời đất vốn có thủy chế, cũng chủ trung thọ, Đinh Mão không ngại. Hỏa này tuy hỷ được kim là Tài, ở trong Kiếm kim thấy Dần hơi được, Đinh Mão hỏa đã tự bại, lại đến Thân Dậu mà tử tuyệt, làm sao mà khắc!
Không bần cũng yểu. Các loại kim như Hải Trung, Sa Chá, cần giúp mộc sinh, mới hỷ thấy, Soa Bạc kim là vô dụng. Thấy thổ trước tiên phải có kim và mộc, nhưng hỷ có đủ thổ, không đến nỗi quá khô táo. Như Thành Đầu, ốc Bích thổ đều thành khí, mới thích thấy thủy, trong mệnh trước tiên là thích mộc, không bằng hỷ gặp nhiều hỏa. Thiên Thượng thanh thủy, mậnh Dần gặp là cát, trong Mão không có mộc thì lo; Đại Hải, Bính Dần thấy Nhâm Tuất là phúc khố, thấy Quý Hợi là Quan tinh, mang hợp thì nửa hung nửa cát; Tỉnh Giản, Khê Lưu thủy đều hung, có mộc thì không luận ở đây. Hỏa thấy đồng loại, nếu trên tháng ngày suy bại thì cát; Phích Lịch hỏa bản tự là vô ích, nếu có mộc sinh, ngày giờ lại có Hải thủy thì tốt, không
có mộc gặp thủy, thì hung; Thiên Thượng hỏa cần có Ốc Thổ chận, Đăng hỏa Tốn phong,
lại là khích lệ, Vong Thần phải kiêm tạo hóa, đoán như Bính Dần, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Bính Dần là hỏa vô khí, không mất đại quý, như Bính Dần, Giáp Ngọ, Kỷ Tị, Bính Dần thì phiêu phiếm bất an.
- Con: Đinh Dậu Mạng: Sơn Hạ Hỏa
Đinh Dậu, là hỏa tự tử. là khí cực, có mộc tương trợ, phương sinh khí. Kị thủy Giáp Thân, Ất Dậu, Giáp Dần, Ất Mão.
Sơn Hạ hỏa, ánh sáng rực chiếu cây cỏ, hoa Lý lóa sáng, ánh sáng chiếu rừng cây xen cành
lá, màu sắc ngăn cách màn che điểm trên quần áo, Phương Sóc lấy danh là Huỳnh Hỏa, cho
nên trong Diệu Tuyển có Huỳnh Hỏa chiếu Thủy cách, sinh gặp mùa thu thì quý hàng Khanh
Giám, là vì hỏa này hỷ thủy, địa chi phùng Hợi Tý, hoặc nạp âm thủy gặp thêm tháng Thân
Dậu là vậy. Hoặc vì Sơn Hạ hỏa tối hỷ mộc và sơn, lại gặp gió đến tăng thêm ánh sáng là
quý, thì không lấy Huỳnh Hỏa luận vậy. Đại Lâm mộc có Thìn Tị là phong là gió, Tang Chá
mộc có Quý Sửu là sơn, Tùng Bách Bình Địa là tối cát, lại thêm phong trợ giúp, chủ quý, nếu
gió nhiều thổi tán, là chủ yểu. Thủy thích Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, có mộc trợ giúp, chủ tước vị
hiển cao, Đại Hải thủy thì không hợp, nhưng có sơn (núi) cũng ứng quý cách. Dần Mão là
đông phương đất mộc vượng hỏa sinh, chỉ có Giáp Dần mới cát, Ất Mão là Chấn, có phong,
thấy không tốt. Nếu không có hỏa không có sơn, lại thêm Phích hỏa, chủ yểu. Thiên Thượng
thủy là mưa rào, hỏa này không thích thấy, nếu trước có sơn thủy trợ giúp, cũng không đại
hại. Mệnh lý có kim, lấy thanh tú là cát, không có gặp nhiều mộc, lấy cướp khí mà luận. Ất
Sửu là sơn, chủ quý; kim còn lại nếu không có khắc phá, gặp Quý nhân Lộc Mã, chỉ lấy Tài
luận. Thổ thấy Sa Trung, Thìn Tị có phong, nếu có mộc có sơn trợ thêm, chủ đại quý, không
có thì hư danh. Hỏa kị Thái Dương, Phích Lịch, Đăng Đầu, Tốn là chủ phần đa là quang hiển.
Ngũ hành có hỏa, cần mộc giúp là cát, hạn số hỷ kị, đều theo chỗ này mà đoán.


Đọc sơ thì thấy gia đình này đều cần thổ thủy mộc. Nhưng là mộc nơi Dần, không phải nơi Mão. Nhà thì toàn nạp âm hỏa.

Đọc theo năm thì Đinh Kỷ lộc tại Ngọ. Mão phá Ngọ, Ngọ phá Dậu.
Con cái là hình ảnh của cha mẹ, Đinh Dậu. Đinh hỏa khắc Dậu kim.

Năm Mậu Tuất. Dậu hại Tuất. Tuất hợp Mão. Tuất hình Mùi.
Năm Canh Tý. Tý xung Ngọ, Dậu phá Tý, Tý phá Mão, Tý hại Mùi.
Năm Tân Sửu. Sửu hại Ngọ, Sửu hình xung Mùi, Dậu nhập Sửu.

Vậy mới thấy, gia đình nên có đủ ngũ hành nạp âm, không cứ bất nhất chỉ đẻ đồng ngũ hành hay chỉ đẻ sinh không chịu đẻ khắc. Hỏa nhiều có cái bất lợi, là tượng tự thiêu đốt lấy mình.

"Đạo Trời như thể dương cung,
Làm căng chỗ thấp, làm chùng chỗ cao.
Bớt thừa bù thiếu khéo sao,
Chỗ thêm chỗ bớt tơ hào chẳng sai.

Lối người ngược lại lối Trời,
Luôn bòn chỗ thiếu mang bồi chỗ dư.
Ấy ai biết lấy chỗ thừa,
Làm cho thiên hạ ấm no vẹn toàn.
Của thừa đem giúp thế gian,
Họa là đắc đạo siêu phàm mấy ai.

Cho nên hiền thánh trên đời,
Tuy làm mà chẳng có đòi công lao.
Công thành dạ chẳng tơ hào,
Chẳng mong tiếng cả ngôi cao cho mình."

Theo đạo thì có Phúc. Rời đạo là vô Phúc!
Có Phúc mặc sức mà ăn.
 
Top