Có Hình Tuổi thanh xuân rực rỡ trong chiến tranh-Câu chuyện về cán bộ kỳ cựu của Đài Phát thanh Trung ương Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Mỹ

vivu89

Xamer mới lớn
Đây là "bằng khen" được viết bằng tiếng Việt với những nếp gấp ố vàng và một tấm huy chương quân đội sáng lóa. Những bằng khen và huy chương do chính phủ Việt Nam trao tặng cho những chiến sĩ Trung Quốc viện trợ Việt Nam, dường như đang kể về những năm tháng cháy hết mình trong giai đoạn viện trợ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ. Người được trao bằng khen là ông Dương Cảnh Khoa, cán bộ về hưu thuộc Phòng Kỹ thuật của Đài Phát thanh - Truyền hình Trung ương Trung Quốc và người được trao huy chương là ông Trương Á Quang, cán bộ về hưu của Cục Khai thác Quặng Long Khẩu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

2022042811520669654.jpg




2022042811552289252.jpg


Năm 1966, trong nhiệm vụ đầu tiên viện trợ Việt Nam chống Mỹ, ông Dương Cảnh Khoa đã ở lại Lạng Sơn, thị xã Kép của Việt Nam trong 8 tháng. Trong thời gian ở Lạng Sơn, ông Dương Cảnh Khoa đã được kết nạp Đảng và trở thành Đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, ông Dương Cảnh Khoa và các đồng đội đã được cựu Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng trao tặng bằng khen và huân chương. Sau khi trở về Trung Quốc, vì đã có kinh nghiệm chiến đấu ở Việt Nam, năm 1967, quân đội lần thứ 2 lại cử ông Dương Cảnh Khoa sang Việt Nam. Hai lần vào sinh ra tử viện trợ cho Việt Nam, có lúc chiến thắng cũng có lúc thua, kỷ niệm đau thương nhất trong sâu thẳm ký ức của ông Dương Cảnh Khoa là 30 - 40 đồng đội thân thiết nhất của ông hy sinh tại Việt Nam.

2022042810450350000.jpg



Trong trận chiến ngày 18/6/1967, hơn 10 quả bom rơi vào hầm trú ẩn của tiểu đội 2, đại đội 11, trung đoàn 5, cả 8 chiến sĩ đều bị thương. Sau khi tỉnh dậy, Tiểu đội trưởng Triệu Quảng Nghĩa tiếp tục chỉ huy trận chiến, cuối cùng hy sinh vì vết thương quá nặng. Xạ thủ Vương Bính Quý bị nhiều vết thương ở ngực và chân, anh chịu đau và bắn liên tiếp 3 quả đạn pháo. Khi kết thúc trận chiến, anh vẫn dùng tay trái đẩy đạn pháo, ngồi thẳng trên mâm pháo, nhưng trái tim anh đã ngừng đập. Ngày 5/7/1967, trong khi đang chiến đấu, một quả bom rơi giữa hai chân của Lý Kim Tài, xạ thủ Trung đội 2, đại đội 8, Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 5 Pháo phòng không Trung Quốc. Lúc quả bom sắp nổ, nhằm yểm trợ đồng đội và bảo vệ khẩu pháo, anh kẹp hai chân lại, kết quả hai chân anh bị nổ tung, mâm pháo vương vãi máu. Nhưng anh vẫn tiếp tục giữ vị trí chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng.

2022042810450359682.jpg


Nhớ lại sự đau thương và tàn khốc của chiến tranh, ông Dương Cảnh Khoa bật khóc: “Còn có một lần, 12 chiến sĩ của chúng tôi được cử đi bảo vệ trạm ra đa 513. Cuối cùng trạm ra đa này bị máy bay Mỹ ném bom, toàn bộ chiến sĩ đều hy sinh hết. Khi nhìn thấy máu thịt vương vãi khắp nơi, chúng tôi nước mắt rơi luôn, những chiến sĩ thật đáng thương. Họ đến Việt Nam và hy sinh tại đây. Chúng tôi còn có một chính trị viên mà bọn tôi thường đùa rằng, sau khi từ Việt Nam trở về thì để anh ấy lấy vợ trước, cuối cùng anh ấy cũng hy sinh...” Lần thứ hai viện trợ Việt Nam, ông Dương Cảnh Khoa cũng suýt hy sinh, ông cho biết: “Hôm đó là ngày 26/8, tôi vẫn còn nhớ như in, nơi quả bom nổ chỉ cách tôi 25 mét, tạo thành một cái hố lớn, đất đá văng tung tóe vùi lấp tôi. Nhưng tôi không sợ, là một chiến sĩ thì không sợ chết, ai sợ chết thì đừng nhập ngũ.

2022042810450312881.jpg



Trong 8 năm viện trợ Việt Nam chống Mỹ từ năm 1965 đến 1973, hơn 4.000 cán bộ và chiến sĩ bị thương và 1.400 chiến sĩ Trung Quốc đã anh dũng hy sinh trên đất Việt Nam. Trong đó, lực lượng pháo phòng không của ông Dương Cảnh Khoa, có 280 chiến sĩ hy sinh và 1.166 cán bộ và chiến sĩ bị thương. Chỉ tính riêng từ năm 1970 đến năm 1972, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 300 xe tăng, còn cung cấp thiết bị đồng bộ đường ống dẫn dầu dài 3.000 km, 80.000 áo chống đạn. Theo thống kê, vật tư quân sự Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam bao gồm: súng, pháo, ô tô, xe tăng, máy bay, tàu chiến, đạn dược, quân phục, dầu mỏ, lương thực... trị giá khoảng 4,26 tỷ nhân dân tệ, có thể trang bị cho hơn 2 triệu binh sỹ Việt Nam. Đã thực hiện cam kết của Chủ tịch Mao Trạch Đông đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người và vật tư đều sẵn sàng dành cho Việt Nam.

2022042810450380135.jpg


Bất chấp tình hình kinh tế cực kỳ khó khăn lúc bấy giờ, Trung Quốc đã không tiếc mọi giá để viện trợ Việt Nam. Ông Dương Cảnh Khoa cho biết: "Lúc đó, Trung Quốc chỉ mỗi sư đoàn chúng tôi có pháo phòng không 160, những vũ khí tốt nhất vốn được sử dụng để bảo vệ thủ đô Bắc Kinh, cuối cùng đều được vận chuyển đến Việt Nam để chống Mỹ". Từ năm 1965 đến năm 1975, hơn 20 tỉnh, thành phố, khu tự trị cùng hàng nghìn đơn vị nghiên cứu khoa học, nhà máy của Trung Quốc đã được giao nhiệm vụ viện trợ Việt Nam chống Mỹ, viện trợ nhiều vũ khí, trang thiết bị và các loại vật tư khác cho Việt Nam. Chỉ cần Việt Nam có nhu cầu, thì ưu tiên hỗ trợ Việt Nam; Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc còn cố gắng hết sức để đáp ứng nhu cầu của Việt Nam ngay cả sử dụng hàng trong kho của mình, thậm chí còn điều chuyển các thiết bị đang trang bị trong quân ngũ; nếu không có sẵn, thì sản xuất ngay lập tức; nếu nó chưa từng sản xuất, thì tổ chức nghiên cứu và phát triển ngay.

2022042810450370720.jpg


Sau nửa thế kỷ, khi nhớ lại những năm tháng huy hoàng viện trợ Việt Nam chống Mỹ, ông Dương Cảnh Khoa vẫn rơm rớm nước mắt: “Những năm tháng viện trợ Việt Nam mặc dù rất vất vả, nhưng chúng tôi luôn thấy vui và hạnh phúc. Vì lợi ích của Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế, chúng tôi đã không chùn bước, tôi nghĩ đó là điều đáng làm. Nhưng chiến tranh quá tàn khốc, khổ nhất là những chiến sĩ và người dân chúng ta, vì vậy chúng ta phải trân trọng hòa bình và hữu nghị, bảo vệ cuộc sống vốn không dễ gì có được

2022042810450217166.jpg


2022042810450348699.jpg


2022042810450325239.jpg


2022042810450383111.jpg


2022042810450380500.jpg


https://vietnamese.cri.cn/2022/04/28/ARTIaovrGxmFyuyBmcZccwkF220428.shtml
 
Lần đầu biết đến Việt Nam

2022042011234840211.jpg


Đây là "bằng khen" được viết bằng tiếng Việt với những nếp gấp ố vàng và một tấm huy chương quân đội chói lóa. Những bằng khen và huy chương do chính phủ Việt Nam trao tặng cho những người lính Trung Quốc viện trợ Việt Nam, dường như đang kể về những năm tháng cháy hết mình trong giai đoạn viện trợ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ. Người được trao bằng khen là ông Dương Cảnh Khoa, cán bộ về hưu thuộc Phòng Kỹ thuật của Đài Phát thanh - Truyền hình Trung ương Trung Quốc và người được trao huy chương là ông Trương Á Quang, cán bộ về hưu của Cục Khai thác Quặng Long Khẩu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Năm 1966 và 1967, ông Dương Cảnh Khoa tốt nghiệp Học viện Radar Không quân Trung Quốc, đã hai lần sang Việt Nam tác chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Mao Trạch Đông đến giúp đỡ nhân dân Việt Nam đẩy lùi cuộc tấn công của quân đội Mỹ.

.

2022042011234757770.jpg


Từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 8 năm 1973, Trung Quốc đã điều động tổng cộng hơn 320.000 binh sĩ thuộc các quân chủng phòng không, công binh, đường sắt, rà phá bom mìn và hậu cần, v.v. để thực hiện các nhiệm vụ phòng không, xây dựng, rà phá bom mìn và đảm bảo hậu cần ở miền Bắc Việt Nam. Ông Dương Cảnh Khoa và Trương Á Quang đều thuộc lực lượng phòng không. Kể từ tháng 8 năm 1965, các bộ đội pháo phòng không của Không quân Trung Quốc đã lần lượt bí mật vào Việt Nam. Khi nhớ lại những cảnh tượng khi lần đầu đặt chân đến Việt Nam, ông Dương Cảnh Khoa 85 tuổi vẫn còn nhớ như in. Ông cho biết: "Đó là vào năm 1966, khi tôi 28 tuổi. Tôi đi tàu xuống miền Nam, qua sông Trường Giang và Hữu nghị quan. Sau đó, chúng tôi ở lại Lạng Sơn, tỉnh Hòa Bình, sau đó tiếp tục đi về phía Nam, đến thị xã Kép của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam". Trên đường đến Việt Nam, có một đoàn xe dài và nhiều chủng loại pháo dừng lại tại hai bên đường. Những binh sĩ ngồi trên xe đều đội mũ lưỡi trai, mặc bộ quân phục màu xanh, đi "dép cao su", họ ôm những khẩu súng tiểu liên mới, một chiếc chăn bông mỏng và một bộ quân phục để thay đổi, đóng gói đặt dưới mông. Những anh lính trẻ tập nói mấy câu tiếng Anh mới học: "Nộp vũ khí, không giết!" “Chúng tôi đối xử tốt những tù binh”...Sau đó là những tràng cười nhẹ
nhàng.

2022042011234752051.jpg


Sau khi đến Việt Nam, những người lính Trung Quốc được người dân Việt Nam chào đón nồng nhiệt, ông Dương Cảnh Khoa nhớ lại: "Lúc đó, chúng tôi ở Lạng Sơn và thị trấn Kép, không thấy đồng chí nam nào cả. Họ đi chiến trường hết, rất khổ. Những đồng chí phụ nữ Việt Nam ở lại thì rất thân thiện, hữu nghị và hào phóng đối với chúng tôi, tôi vẫn nhớ những đồng chí nữ Việt Nam đội nón và nói với chúng tôi rằng, ‘Chào các đồng chí’. Chúng tôi cùng hát ‘Việt Nam-Trung Hoa’, Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông...”. Ông Trương Á Quang cho biết: "Sau khi chúng tôi đến, chúng tôi gặp người dân địa phương Việt Nam. Họ tặng cho chúng tôi rất nhiều sắn. Bà con nói với chúng tôi rằng, đồ này có thể ăn no. Sau khi nhận được sắn, chúng tôi đã chuẩn bị gạo, xà phòng và pin trong đèn pin để tặng cho họ, mọi người đều rất vui. "

2022042011234773055.jpg


Sau khi được thu xếp nhanh, nhiệm vụ chờ
đợi các chiến sĩ là bảo vệ đầu mối giao thông vận tải chính của Trung Quốc viện trợ vật tư sang Việt Nam và các mục tiêu quan trọng ở Sông Hóa, thị trấn Kép, Ôn Châu, Lạng Sơn, v.v. Liệu có thể chiến thắng Lực lượng Không quân hùng mạnh của Mỹ hay không là một thách thức to lớn đối với các chiến sĩ Trung Quốc. Khu vực phòng thủ được bao phủ bởi núi cao trùng điệp, rừng rậm bạt ngàn, rất bất lợi đối với sự cơ động tác chiến của lực lượng pháo phòng không. Khi đến thì máy bay quân đội Mỹ bổ nhào, khi sắp bắn trúng mục tiêu thì máy bay vút lên cao, thả bom, gây ra những tiếng nổ lớn, sau đó rồi bay lên cao để tập kết tại bờ biển Việt Nam. Trong thời gian máy bay Mỹ bổ nhào và tập trung, chúng sẽ bay qua các trận địa mà Dương Cảnh Khoa và các đồng đội của ông đóng quân, đây chính là thời điểm tốt nhất để tấn công. Khi trận chiến bắt đầu, bầu trời dày đặc máy bay Mỹ và bom nổ ầm ầm. Chỉ trong nháy mắt, máy bay địch gầm rú lao xuống. Trung đoàn trưởng xác định phương hướng tấn công chính của máy bay Mỹ và phát lệnh: "Đổi hướng hỏa lực, nhắm vào máy bay đầu tiên của tốp thứ 3, cả trung đoàn tập trung hỏa lực!". Sau một loạt đạn pháo, máy bay Mỹ tan tành xác pháo trên không trung. Ông Dương Cảnh Khoa cho biết: "Khi chiến đấu, chúng tôi đều ăn ở tại chỗ, một hầm trú ẩn và một khẩu pháo cao xạ, cứ thế mà đợi. Khi máy bay Mỹ đến, nhiều nhất có hơn 30 chiếc, giống như một đàn quạ bay qua bầu trời, một chiếc máy bay có hơn 2.000 quả bom. Cuối cùng, sư đoàn chúng tôi đã bắn rơi hơn 90 máy bay Mỹ, khi chúng bay đến gần, tôi có thể nhìn rõ phi công là người Mỹ. Sư đoàn của ông Trương Á Quang còn bắt sống một phi công Mỹ, ông cho biết: “Tôi và một vài đồng đội đều tận mắt nhìn thấy lính Mỹ nhảy dù xuống đó, anh có đôi mắt xanh. Chúng tôi nói với anh ta rằng, anh cứ khai thật, chúng tôi sẽ không làm hại anh."

2022042011234768115.jpg


Cách đánh tập trung hỏa lực để tấn tấn công ở cự ly gần của bộ đội pháo phòng không Trung Quốc đã trở thành "vũ khí sát thủ" đối phó với quân đội Mỹ. Tuy nhiên, tập trung hỏa lực đánh cự ly gần cũng rất mạo hiểm, bộ đội chiến đấu không những phải không được sợ hãi trước hiểm nguy, dám hy sinh tính mạng, mà còn phải rất quyết đoán. Từ tháng 8 năm 1965 đến tháng 3 năm 1969, tổng cộng có khoảng 150.000 người lính đến từ 63 trung đoàn thuộc 16 sư đoàn của lực lượng phòng không Trung Quốc sang viện trợ Việt Nam chống Mỹ. Trong khoảng thời gian 3 năm 7 tháng, họ đã tác chiến 558 lần, bắn rơi 597 chiếc máy bay và bắn trúng 479 máy bay Mỹ. Ông Trương Á Quang và đồng đội nung chảy những mảnh vỡ của máy bay Mỹ để làm thành những mô hình nhỏ, mang về tặng cho người nhà để làm quà lưu niệm. Ông Trương Á Quang cho biết, "Đó là chiến lợi phẩm của chúng tôi, chúng tôi rất tự hào."
 
Sửa lần cuối:
Top